Hồ
Chí
Minh
đã
nêu
lên
hệ
thống
các
quan
điểm
toàn
diện
và
sâu
sắc
về
những
phẩm
chất
đạo
đức
của
con
người
Việt
Nam
trong
thời
đại
mới.
Trong
đó,
có
vấn
đề
về
tinh
thần
trách
nhiệm.
Người
chỉ
rõ:
Đạo
đức
công
dân
là
tuân
theo
pháp
luật
nhà
nước;
tuân
theo
kỷ
luật
lao
động;
giữ
gìn
trật
tự
chung…
Đó
là
đóng
thuế
vì
lợi
ích
chung.
Bảo
vệ
tài
sản
công
cộng,
bảo
vệ
Tổ
quốc.
Hăng
hái
thi
đua
cần,
kiệm
xây
dựng
nước
nhà
HỌC
TẬP
VÀ
LÀM
THEO
TẤM
GƯƠNG
ĐẠO
ĐỨC
HỒ
CHÍ
MINH
VỀ
NÊU
CAO
TINH
THẦN
TRÁCH
NHIỆM,
PHONG
CÁCH
GƯƠNG
MẪU,
NÓI
ĐI
ĐÔI
VỚI
LÀM.
-------------
I.
TƯ
TƯỞNG
HỒ
CHÍ
MINH
VỀ
NÊU
CAO
TINH
THẦN
TRÁCH
NHIỆM,
PHONG
CÁCH
GƯƠNG
MẪU,
NÓI
ĐI
ĐÔI
VỚI
LÀM
1.
Tư
tưởng
đạo
đức
Hồ
Chí
Minh
về
nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm
1.1.
Sự
cần
thiết
phải
nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm
-
Trách
nhiệm
là
một
quan
hệ
xã
hội;
là
điều
mỗi
người
phải
làm,
phải
gánh
vác
hoặc
phải
nhận
lấy...
Mỗi
người
đều
có
một
vị
trí
nhất
định
trong
gia
đình,
dòng
họ,
tập
thể,
tổ
chức,
địa
phương,
dân
tộc,
quốc
gia,
và
rộng
nhất
là
nhân
loại…
Trong
các
mối
quan
hệ
đó,
trách
nhiệm
được
hình
thành
trên
cơ
sở
những
quy
định
của
luật
pháp,
quy
chế,
quy
ước,
công
ước…
Trách
nhiệm
còn
được
hình
thành
do
dư
luận
xã
hội
và
bị
chi
phối
bởi
dư
luận
xã
hội.
-
Tinh
thần
trách
nhiệm
là
kết
quả
nhận
thức
đúng
đắn
về
trách
nhiệm
của
con
người,
từ
đó
hành
động
tích
cực,
tự
giác.
Những
người
có
nhận
thức
và
hành
động
như
thế
là
có
tinh
thần
trách
nhiệm
cao.
-
Hồ
Chí
Minh
đã
nêu
lên
hệ
thống
các
quan
điểm
toàn
diện
và
sâu
sắc
về
những
phẩm
chất
đạo
đức
của
con
người
Việt
Nam
trong
thời
đại
mới.
Trong
đó,
có
vấn
đề
về
tinh
thần
trách
nhiệm.
Người
chỉ
rõ:
+Đạo
đức
công
dân
là
tuân
theo
pháp
luật
nhà
nước;
tuân
theo
kỷ
luật
lao
động;
giữ
gìn
trật
tự
chung…
Đó
là
đóng
thuế
vì
lợi
ích
chung.
Bảo
vệ
tài
sản
công
cộng,
bảo
vệ
Tổ
quốc.
Hăng
hái
thi
đua
cần,
kiệm
xây
dựng
nước
nhà,…
+Trách
nhiệm
của
cán
bộ,
đảng
viên,
công
chức
đối
với
Tổ
quốc,
đối
với
Nhân
dân
bắt
từ
nguyên
lý:
“Nước
lấy
dân
làm
gốc”,
“sự
nghiệp
cách
mạng
là
do
Nhân
dân
tiến
hành”,
“Nhân
dân
là
người
làm
ra
lịch
sử”…
Người
khẳng
định:
Không
có
Nhân
dân,
Đảng,
Chính
phủ
không
đủ
lực
lượng.
Sức
mạnh
Nhân
dân
là
vô
địch.
Trong
bầu
trời
không
gì
quý
bằng
Nhân
dân.
Có
dân
là
có
tất
cả.
Dễ
mười
lần
không
dân
cũng
chịu,
khó
trăm
lần
dân
liệu
cũng
xong…
Để
tập
hợp
và
phát
huy
sức
mạnh
vô
địch
của
Nhân
dân,
Đảng,
Chính
phủ
có
trách
nhiệm
tổ
chức,
vận
động
nhân
dân,
giảng
giải
lý
luận,
chiến
lược,
sách
lược
cho
dân,
làm
cho
dân
nhận
rõ
tình
hình,
đường
lối
và
định
phương
châm
cho
đúng.
+Cán
bộ,
đảng
viên,
công
chức
và
mọi
công
dân
đều
phải
có
bổn
phận
đối
với
đất
nước.
Trong
xã
hội
ta,
nước
là
nước
của
dân;
dân
là
chủ
và
dân
làm
chủ,
có
trách
nhiệm
xây
dựng
và
bảo
vệ
Tổ
quốc.
Nước
độc
lập
thì
ai
cũng
được
tự
do;
nếu
mất
nước
thì
ai
cũng
phải
làm
nô
lệ.
Trong
chế
độ
mới,
cán
bộ,
công
chức
là
người
phụ
trách
trước
đồng
bào;
thực
hiện
bổn
phận
trung
thành
với
Tổ
quốc,
với
Nhân
dân,
tổ
chức,
lôi
cuốn
nhân
dân.
Trách
nhiệm
của
cán
bộ,
đảng
viên,
công
chức
theo
tư
tưởng
Hồ
Chí
Minh
tựu
trung
lại
là
“hết
lòng
hết
sức
phụng
sự
Tổ
quốc,
phục
vụ
nhân
dân”.
1.2.
Quan
điểm
của
Hồ
Chí
Minh
về
nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm
Tích
cực,
tự
giác
thực
hiện
nhiệm
vụ
được
giao:
-
Khi
được
Đảng,
Chính
phủ
hoặc
cấp
trên
giao
cho
việc
gì,
bất
kỳ
to
hay
nhỏ,
khó
hay
dễ,
cũng
phải
đem
cả
tinh
thần,
lực
lượng
ra
làm
cho
đến
nơi
đến
chốn,
vượt
qua
mọi
khó
khăn,
gian
khổ.
Phải
“có
gan
phụ
trách”,
dám
nghĩ
dám
làm,
chủ
động
sáng
tạo
để
có
kết
quả
cao
nhất.
-
Phải
luôn
làm
tròn
trách
nhiệm
một
cách
tự
giác,
theo
lương
tâm,
lương
tri;
làm
việc
theo
nhu
cầu
nội
tâm
cá
nhân.
Làm
việc
cẩu
thả,
làm
cho
có
chuyện,
dễ
làm
khó
bỏ,
đánh
trống
bỏ
dùi,
gặp
sao
làm
vậy,
…
là
vô
trách
nhiệm.
Ý
thức
đúng
đắn
về
trách
nhiệm
của
mình
trên
mọi
cương
vị,
vị
trí
công
tác:
Tất
cả
mọi
người,
ở
mọi
địa
vị,
vị
trí
công
tác,
trong
mọi
hoàn
cảnh
đều
phải
nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm.
Chủ
tịch
hồ
Chí
Minh
khẳng
định
nghề
nào
cũng
vinh
quang
và
việc
gì
cũng
phải
cố
gắng
chuyên
tâm,
không
chủ
quan,
đại
khái.
Thí
dụ,
người
nấu
bếp,
luôn
luôn
lo
làm
cho
cơm
lành,
canh
ngọt,
bát
đũa
sạch
sẽ.
Không
phí
phạm
của
công…
Như
thế
là
có
tinh
thần
trách
nhiệm,
hoàn
thành
tốt
nhiệm
vụ.
Người
cán
bộ
quân
sự,
thì
luôn
luôn
học
hỏi
chính
trị
và
kỹ
thuật,
chiến
thuật.
Luôn
luôn
săn
sóc
đến
tinh
thần
và
vật
chất
của
chiến
sĩ.
Đoàn
kết
nội
bộ.
Giúp
đỡ
nhân
dân.
Kiên
quyết
chấp
hành
mệnh
lệnh
trên
giao
xuống.
Khi
đánh
giặc
thì
thấm
nhuần
tinh
thần
quyết
chiến,
quyết
thắng.
Gặp
việc
khó
khăn
thì
cố
tìm
mọi
cách
giải
quyết
đúng.
Như
thế
là
có
tinh
thần
trách
nhiệm.
Nắm
vững
chính
sách
và
thực
hiện
đường
lối
quần
chúng:
-
Đảng
và
Chính
phủ
đề
ra
chính
sách.
Cán
bộ
phải
nghiên
cứu,
hiểu
rõ,
thấm
nhuần
chính
sách
ấy.
Theo
chính
sách
ấy
mà
điều
tra,
nghiên
cứu,
nắm
chắc
hoàn
cảnh
thiết
thực
của
đơn
vị
mình,
địa
phương
mình.
Rồi
đặt
kế
hoạch
rõ
ràng,
tỉ
mỉ,
thiết
thực,
để
giải
thích,
tuyên
truyền,
cổ
động
quần
chúng;
làm
cho
mọi
người
hiểu
rõ
và
ủng
hộ
chính
sách
của
Đảng
và
Chính
phủ
như
là
của
họ,
rồi
thi
đua
thực
hiện
đầy
đủ
chính
sách
ấy.
Như
thế
là
làm
tròn
nhiệm
vụ.
-
Để
thực
hiện
chính
sách,
làm
trọn
nhiệm
vụ,
cán
bộ
chẳng
những
phải
chịu
khó
giải
thích,
tuyên
truyền,
cổ
động,
mà
còn
phải
bàn
bạc
với
quần
chúng,
hỏi
han
ý
kiến,
gom
góp
sáng
kiến
của
quần
chúng.
Lãnh
đạo
quần
chúng
và
hoan
nghênh
quần
chúng
phê
bình.
Tóm
lại,
“phải
đi
đúng
đường
lối
quần
chúng.
Thế
là
có
tinh
thần
trách
nhiệm
đối
với
Đảng,
đối
với
Chính
phủ,
đối
với
nhân
dân”
[1].
Người
bảo:
“Mỗi
tư
tưởng,
mỗi
câu
nói,
mỗi
chữ
viết,
phải
tỏ
rõ
cái
tư
tưởng
và
lòng
ước
ao
của
quần
chúng”.
"Phải
đưa
chính
trị
vào
giữa
dân
gian".
“Trước
kia,
việc
gì
cũng
từ
"trên
dội
xuống".
Từ
nay
việc
gì
cũng
phải
từ
"dưới
nhoi
lên".
Cần
phải
loại
bỏ
cho
bằng
được
tình
trạng:
“…
đem
hai
chữ
"mệnh
lệnh"
làm
thành
một
bức
tường
để
tách
rời
Đảng
và
Chính
phủ
với
nhân
dân,
tách
rời
lợi
ích
của
nhân
dân
với
chính
sách
của
Đảng
và
Chính
phủ”
Trái
ngược
với
tinh
thần
trách
nhiệm
là
bệnh
quan
liêu,
mệnh
lệnh,
chủ
quan,
tự
tư
tự
lợi:
-
Theo
Hồ
Chí
Minh,
quan
liêu
là
xa
rời
thực
tế,
xa
rời
quần
chúng
nhân
dân,
xa
rời
mục
tiêu
lý
tưởng
của
Đảng.
Bệnh
quan
liêu
là
nguy
cơ
lớn
nhất
của
Đảng
cầm
quyền,
là
nguyên
nhân
của
nhiều
căn
bệnh
khác.
Quan
liêu
dẫn
tới
chủ
quan,
mệnh
lệnh,
hấp
tấp,
khi
gặp
khó
khăn
thì
dễ
dao
động,
ngả
nghiêng…
-
Đối
với
cán
bộ,
đảng
viên,
công
chức,
bệnh
quan
liêu
dẫn
tới
chỉ
biết
dùng
mệnh
lệnh,
không
biết
giải
thích,
tuyên
truyền,
“không
sát
công
việc
thực
tế,
không
theo
dõi
và
giáo
dục
cán
bộ,
không
gần
gũi
quần
chúng”
[2].
Trong
công
việc
thì
“Chỉ
biết
khai
hội,
viết
chỉ
thị,
xem
báo
cáo
trên
giấy,
chứ
không
kiểm
tra
đến
nơi
đến
chốn”[3].
Chỉ
biết
lo
cho
mình,
không
quan
tâm
đến
nhân
dân,
đến
đồng
chí.
Trước
mặt
dân
chúng
thì
lên
mặt
“quan
cách
mạng”.
Miệng
thì
nói
dân
chủ,
nhưng
làm
việc
theo
lối
“quan”
chủ.
Miệng
thì
nói
“phụng
sự
quần
chúng”,
còn
thực
tế
thì
“chỉ
biết
ăn
sang,
diện
cho
kẻng;
chẳng
những
không
lo
phụng
sự
nhân
dân,
mà
còn
muốn
nhân
dân
phụng
sự
mình”
[4]
-
Theo
Hồ
Chí
Minh,
bệnh
quan
liêu
mệnh
lệnh
chỉ
đưa
đến
một
kết
quả
là
hỏng
việc;
“thành
thử
có
mắt
mà
không
thấy
suốt,
có
tai
mà
không
nghe
thấu,
có
chế
độ
mà
không
giữ
đúng,
có
kỷ
luật
mà
không
nắm
vững.
Kết
quả
là
những
người
xấu,
những
cán
bộ
kém
tha
hồ
tham
ô,
lãng
phí”
[5]
-
Nguyên
nhân
của
bệnh
quan
liêu:
do
“Xa
nhân
dân;
khinh
nhân
dân;
sợ
nhân
dân;
không
tin
cậy
nhân
dân;
không
hiểu
biết
nhân
dân;
không
yêu
thương
nhân
dân”.
Quan
liêu
là
kẻ
thù
của
nhân
dân,
của
bộ
đội
và
của
Chính
phủ,
là
“kẻ
thù
khá
nguy
hiểm,
vì
nó
không
mang
gươm
mang
súng,
mà
nó
nằm
trong
các
tổ
chức
của
ta,
để
làm
hỏng
công
việc
của
ta”
[6],
là
“
bạn
đồng
minh
của
thực
dân
và
phong
kiến.
2.
Tư
tưởng
đạo
đức
Hồ
Chí
Minh
về
phong
cách
gương
mẫu,
nói
đi
đôi
với
làm.
Theo
Hồ
Chí
Minh,
gương
mẫu
thì
trước
hết
phải
làm
gương
trong
mọi
công
việc
từ
nhỏ
đến
lớn,
được
thể
hiện
thường
xuyên,
về
mọi
mặt…
Trước
hết,
chủ
yếu
là
gương
mẫu
trong
ba
mối
quan
hệ:
Đối
với
mình
phải
không
tự
cao
tự
đại,
tự
mãn,
kiêu
ngạo
mà
luôn
học
tập
cầu
tiến
bộ,
luôn
tự
kiểm
điểm
để
phát
triển
điều
hay,
sửa
đổi
điều
dở
của
bản
thân,
phải
tự
phê
bình
mình
như
rửa
mặt
hàng
ngày.
Đối
với
người,
luôn
giữ
thái
độ
chân
thành,
khiêm
tốn,
đoàn
kết,
thật
thà,
không
dối
trá,
lừa
lọc,
khoan
dung,
độ
lượng.
Đối
với
việc,
dù
trong
hoàn
cảnh
nào
phải
giữ
nguyên
tắc
“dĩ
công
vi
thượng”
(để
việc
công
lên
trên,
lên
trước
việc
tư).
Thứ
hai,
gương
mẫu
là
nói
phải
đi
đôi
với
làm.
Người
chỉ
dạy:
“Nói
miệng,
ai
cũng
nói
được…
Trước
hết,
mình
phải
làm
gương,…
gắng
làm
gương
trong
anh
em,
và
khi
đi
công
tác,
gắng
làm
gương
cho
dân.
Làm
gương
cả
về
ba
mặt:
tinh
thần,
vật
chất
và
văn
hóa.
Không
có
gì
là
khó.
Khó
như
cách
mạng
mà
ta
đã
làm
được
và
đã
thành
công.
Muốn
làm
được,
ta
phải:
quyết
tâm,
trí
tâm
và
đồng
tâm.
Ta
nhớ
ba
chữ
ấy,
thực
hành
làm
gương
nêu
ba
chữ
ấy
lên”.
Hồ
Chí
Minh
cho
rằng,
con
người
nói
chung,
đặc
biệt
là
người
phương
Đông,
coi
trọng
thực
hành
hơn
lý
thuyết.
Chính
vì
thế,
Người
nhắc
nhở
đảng
viên:
“Trước
mặt
quần
chúng,
không
phải
ta
cứ
viết
lên
trán
chữ
“cộng
sản”
mà
ta
được
họ
yêu
mến.
Quần
chúng
chỉ
quý
mến
những
người
có
tư
cách,
đạo
đức.
Muốn
hướng
dẫn
nhân
dân,
mình
phải
làm
mực
thước
cho
người
bắt
chước”.
Tự
mình
phải
chính
trước,
mới
giúp
người
khác
chính.
Mình
không
chính,
mà
muốn
người
khác
chính
là
vô
lý.
Thứ
ba,
để
giáo
dục
bằng
phương
pháp
nêu
gương
đạt
kết
quả
cao,
Người
chủ
trương:
“Lấy
gương
người
tốt,
việc
tốt
để
hằng
ngày
giáo
dục
lẫn
nhau
là
một
trong
những
cách
tốt
nhất
để
xây
dựng
Đảng,
xây
dựng
các
tổ
chức
cách
mạng,
xây
dựng
con
người
mới,
cuộc
sống
mới”.
Trong
gia
đình,
cha
mẹ
có
thể
là
tấm
gương
cho
các
con,
anh
chị
là
tấm
gương
đối
với
các
em;
trong
nhà
trường,
thầy
giáo,
cô
giáo
là
tấm
gương
cho
học
trò;
trong
cơ
quan,
tổ
chức
thì
cán
bộ
lãnh
đạo
là
tấm
gương
cho
cấp
dưới,
người
này
có
thể
nêu
gương
cho
người
khác.
Trong
cuộc
sống
hàng
ngày,
người
cán
bộ,
đảng
viên
chẳng
những
phải
có
trách
nhiệm
tự
tu
dưỡng
tốt
để
trở
thành
con
người
có
đời
tư
trong
sáng,
mà
còn
phải
là
tấm
gương
giúp
nhân
dân
nhìn
vào
đó
làm
những
điều
đúng,
điều
thiện,
chống
lại
thói
hư,
tật
xấu.
Hồ
Chí
Minh
chỉ
ra
một
triết
lý
sâu
xa
là
cơm
chúng
ta
ăn,
áo
chúng
ta
mặc
đều
do
mồ
hôi,
nước
mặt
của
dân
mà
ra,
nên
chúng
ta
phải
đền
bù
xứng
đáng
cho
dân.
Cán
bộ,
đảng
viên
phải
xông
xáo,
nhiệt
tình,
sâu
sát
nhân
dân,
gương
mẫu
và
dám
chịu
trách
nhiệm
trước
dân
cả
về
lời
nói
và
việc
làm;
phải
luôn
quyết
tâm,
bền
bỉ,
chịu
đựng
gian
khổ,
quan
tâm
và
tìm
mọi
cách
giải
quyết
kịp
thời,
hiệu
quả
những
nhu
cầu
mà
nhân
dân
đặt
ra,
kể
cả
chấp
nhận
sự
hy
sinh
để
bảo
vệ
dân,
phấn
đấu
vì
sự
ấm
no,
hạnh
phúc
của
nhân
dân.
Tư
tưởng
đạo
đức
ấy
đã
tạo
nên
một
phong
cách
nêu
gương
của
Người-
người
lãnh
tụ
kính
yêu
của
cách
mạng
Việt
Nam;
người
suốt
đời
phấn
đấu,
hy
sinh
vì
đất
nước,
vì
dân
tộc,
đời
tư
trong
sáng,
cuộc
sống
riêng
giản
dị;
người
mà
cả
cuộc
đời
là
một
tấm
gương
lớn
cho
các
thế
hệ
con
cháu
mãi
mãi
noi
theo.
Về
nói
đi
đôi
với
làm
và
sự
cần
thiết
phải
nói
đi
đôi
với
làm:
-
Theo
Bác
Hồ,
nói
đi
đôi
với
làm
là
nguyên
tắc
đầu
tiên
trong
ba
nguyên
tắc
đạo
đức
cách
mạng:
Nói
thì
phải
làm,
xây
đi
đôi
với
chống
và
tu
dưỡng
đạo
đức
suốt
đời.
Trong
bài
giảng
“Tư
cách
một
người
cách
mệnh”
Bác
viết:
“Tự
mình
phải:
Cần
kiệm.
Hòa
mà
không
tư.
Cả
quyết
sửa
lỗi
mình.
Cẩn
thận
mà
không
nhút
nhát.
Hay
hỏi.
Nhẫn
nại
(chịu
khó).
Hay
nghiên
cứu,
xem
xét.
Vị
công
vong
tư.
Không
hiếu
danh,
không
kêu
ngạo.
Nói
thì
phải
làm”
[7].
-
Về
bản
chất,
“nói
đi
đôi
với
làm”
không
chỉ
là
nguyên
tắc
đạo
đức,
lẽ
sống,
phương
châm
hoạt
động
mà
còn
là
biểu
hiện
sinh
động
cụ
thể
của
việc
quán
triệt
sâu
sắc
nguyên
tắc
thống
nhất
giữa
lý
luận
với
thực
tiễn,
giữa
suy
nghĩ
và
hành
động,
giữa
tư
tưởng
đạo
đức
và
hành
vi
đạo
đức
của
mỗi
người.
-
Đối
với
mỗi
người
để
thực
hiện
được
“Nói
đi
đôi
với
làm”
phải
có
nhận
thức
đúng
và
quyết
tâm
vượt
qua
chính
mình.
Có
nhận
thức
đúng
nhưng
không
vượt
qua
được
sự
cám
dỗ
của
lợi
ích
cá
nhân
ích
kỷ
sẽ
dẫn
đến
nói
không
đi
đôi
với
làm.
Để
nói
đi
đôi
với
làm,
cần
có
sự
cố
gắng,
bền
bỉ
và
quyết
tâm,
bởi
bất
kỳ
công
việc
nào,
nhiệm
vụ
gì,
dù
lớn
hay
nhỏ,
khó
hay
dễ,
phức
tạp
hay
đơn
giản,
nhưng
nếu
không
ra
sức
phấn
đấu
thì
cũng
không
thể
làm
được.
-
Nói
đi
đôi
với
làm
thể
hiện
bằng
kết
quả
công
việc.
Kết
quả
công
việc
là
thước
đo
ý
thức
trách
nhiệm.
Với
các
cán
bộ,
đảng
viên,
người
lãnh
đạo
thì
lời
nói
đi
đôi
với
việc
làm
lại
càng
quan
trọng
và
cần
thiết,
vì
cán
bộ
là
gốc
của
mọi
công
việc,
là
tấm
gương
để
quần
chúng
noi
theo.
Nói
đi
đôi
với
làm
chính
là
biểu
hiện
của
sự
gương
mẫu,
trung
thực,
trong
sáng
của
cán
bộ,
đảng
viên,
công
chức
trong
thực
hành
đạo
đức:
“một
tấm
gương
sống
còn
có
giá
trị
hơn
một
trăm
bài
diễn
văn
tuyên
truyền”
[8]
Về
quan
điểm
“nói
đi
đôi
với
làm”:
Nói
phải
đúng
chủ
trương,
chính
sách
của
Đảng
và
Nhà
nước,
không
xuyên
tạc,
nói
sai:
-
Cán
bộ,
đảng
viên
phải
nắm
vững
đường
lối
cách
mạng
của
Đảng
trong
toàn
bộ
tiến
trình
cách
mạng
và
được
cụ
thể
hóa
trong
từng
giai
đoạn.
Nắm
vững
đường
lối
cách
mạng
để
thực
hiện
cho
đúng,
để
tuyên
truyền,
giáo
dục,
vận
động
nhân
dân
làm
theo
cho
đúng.
Phải
rèn
luyện
bản
lĩnh
vững
vàng
để
có
niềm
tin
vào
mục
tiêu
lý
tưởng
cách
mạng
của
Đảng,
với
sự
nghiệp
cách
mạng,
bảo
vệ
nền
độc
lập
dân
tộc
và
xây
dựng
xã
hội
tự
do,
ấm
no,
hạnh
phúc
cho
nhân
dân.
-
Để
nói
đúng
quan
điểm,
đường
lối
của
Đảng,
cán
bộ,
đảng
viên
phải
nghiêm
túc
nghiên
cứu,
học
tập
lý
luận
Mác
-
Lênin.
Hồ
Chí
Minh
coi
lý
luận
như
cái
kim
chỉ
nam,
nó
chỉ
phương
hướng
cho
chúng
ta
trong
việc
thực
tế.
Không
có
lý
luận
thì
lúng
túng
như
nhắm
mắt
mà
đi.
Phải
kiên
quyết
chống
bệnh
chủ
quan
“khinh
lý
luận”.
Người
thường
nhắc
một
luận
điểm
cực
kỳ
quan
trọng
của
Lê-nin:
Không
có
lý
luận
cách
mạng
thì
không
có
phong
trào
cách
mạng.
Chỉ
có
Đảng
nào
có
được
lý
luận
tiền
phong
hướng
dẫn
thì
mới
làm
tròn
vai
trò
chiến
sĩ
tiền
phong.
Không
được
“nói
một
đàng
làm
một
nẻo”:
-
Theo
Hồ
Chí
Minh,
lời
nói
đi
đôi
với
việc
làm,
nói
được
làm
được,
sẽ
mang
lại
những
hiệu
quả
lớn,
được
nhiều
người
hưởng
ứng
và
làm
theo.
Khi
đề
ra
công
việc,
phải
tránh
cách
nói
chung
chung,
đại
khái
và
khó
hiểu.
Khi
nói
cần
phải
cụ
thể,
thiết
thực,
từ
nhỏ
đến
lớn,
từ
thấp
đến
cao,
từ
dễ
đến
khó.
Cán
bộ,
đảng
viên
phải
nói
đi
đôi
với
làm,
nói
trước
làm
trước.
-
Không
được
nói
nhiều
làm
ít
hoặc
nói
mà
không
làm.
Nếu
chính
mình
tham
ô
mà
bảo
người
khác
liêm
khiết
thì
không
được.
Nếu
nói
rằng
phải
cần,
kiệm,
liêm,
chính,
chí
công
vô
tư,
mà
bản
thân
mình
lại
lười
biếng,
không
hoàn
thành
những
công
việc
được
giao,
luôn
tìm
cách
tham
ô,
không
tiết
kiệm,
sống
hoang
phí,
xa
hoa,…
thì
những
lời
nói
đó
sẽ
không
có
tác
dụng.
-
Để
chống
việc
nói
một
đàng
làm
một
nẻo
còn
cần
xác
định
rõ
trách
nhiệm
của
mình.
Mỗi
người,
mỗi
ngành,
mỗi
giới,
mỗi
tầng
lớp
nhân
dân
đều
có
những
công
việc,
nhiệm
vụ
cụ
thể,
không
chung
chung
đại
khái,
dẫn
đến
nói
chung,
ai
cũng
nói
được,
nghe
thì
hay,
nhưng
không
biết
thực
hiện
thế
nào.
Nói
đi
đôi
với
làm
yêu
cầu
phải
đi
sâu
đi
sát,
kiểm
tra
đôn
đốc
kết
quả
của
việc
thực
hiện
những
công
việc
đã
đề
ra,
không
thể
làm
theo
lối
quan
liêu,
như
cách
“tỉnh
gửi
giấy
về
huyện,
huyện
gửi
giấy
về
xã…”
[9].
Không
được
hứa
mà
không
làm:
-
Lời
hứa
chỉ
có
giá
trị
khi
đi
liền
với
việc
làm
cụ
thể.
“Làm”
ở
đây
chính
là
hành
động,
là
hoạt
động
thực
tiễn,
là
tổ
chức
thực
hiện,
đưa
chủ
trương
đường
lối
của
Đảng,
chính
sách,
pháp
luật
của
Nhà
nước
vào
cuộc
sống,
từ
việc
nhỏ
đến
việc
lớn
mang
ý
nghĩa
thiết
thực,
Hồ
Chí
Minh
yêu
cầu
cán
bộ,
đảng
viên
đã
nói
thì
phải
làm,
“Nói
ít,
bắt
đầu
bằng
hành
động”
[10];
“Tốt
nhất
là
miệng
nói,
tay
làm,
làm
gương
cho
người
khác
bắt
chước”
[11].
-
Đối
với
Đảng
ta,
Hồ
Chí
Minh
yêu
cầu
“Đảng
phải
luôn
luôn
xét
lại
những
nghị
quyết
và
chỉ
thị
của
mình
đã
thi
hành
thế
nào.
Nếu
không
vậy
thì
những
nghị
quyết
và
chỉ
thị
đó
sẽ
hóa
ra
lời
nói
suông
mà
còn
hại
đến
lòng
tin
cậy
của
nhân
dân
đối
với
Đảng”
[12]
-
Hồ
Chí
Minh
cho
rằng,
với
trình
độ
giác
ngộ
và
dân
trí
ngày
càng
cao,
không
phải
cứ
nghe
cán
bộ
nói
là
quần
chúng
sẽ
làm
theo
mà
họ
xem
việc
cán
bộ
làm.
Cán
bộ,
đảng
viên
“cần
phải
óc
nghĩ,
mắt
trông,
tai
nghe,
chân
đi,
miệng
nói,
tay
làm.
Chứ
không
phải
chỉ
nói
suông,
chỉ
ngồi
viết
mệnh
lệnh…
phải
thật
thà
nhúng
tay
vào
việc”
[13].
II.
TẤM
GƯƠNG
ĐẠO
ĐỨC
HỒ
CHÍ
MINH
VỀ
NÊU
CAO
TINH
THẦN
TRÁCH
NHIỆM,
PHONG
CÁCH
GƯƠNG
MẪU,
NÓI
ĐI
ĐÔI
VỚI
LÀM
1.
Tấm
gương
đạo
đức
Hồ
Chí
Minh
nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm
-
Ra
đi
tìm
đường
cứu
nước,
Hồ
Chí
Minh
mang
theo
hoài
bão,
khát
vọng
giành
lại
nền
độc
lập
cho
Tổ
quốc.
Những
hoạt
động
của
Người
trong
thời
gian
tìm
đường
cứu
nước
(1911-1920)
là
công
việc
tự
giác,
là
trách
nhiệm
của
một
người
dân
đối
với
Tổ
quốc,
đối
với
Nhân
dân.
Suốt
gần
mười
năm
trải
qua
bao
nhiêu
gian
khổ
tìm
tòi,
chiêm
nghiệm,
khám
phá…,
cuối
cùng
Người
đã
tìm
thấy,
hoàn
thành
trách
nhiệm
đầu
tiên
do
chính
mình
đặt
ra.
-
Sau
khi
tìm
được
con
đường
cứu
nước,
Hồ
Chí
Minh
tự
xác
định
trách
nhiệm
thức
tỉnh
dân
tộc
Việt
Nam,
trước
hết
là
lớp
trí
thức
thanh
niên
yêu
nước,
về
nhiệm
vụ
và
con
đường
cứu
nước,
giải
phóng
dân
tộc.
Đầu
năm
1930,
Người
đã
hoàn
thành
được
một
nhiệm
vụ
có
ý
nghĩa
quan
trọng
hàng
đầu,
đó
là
sáng
lập
ra
đội
tiền
phong
của
giai
cấp
công
nhân
và
của
cả
dân
tộc
-
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
-
để
lãnh
đạo
toàn
dân
đấu
tranh
giành
lại
nền
độc
lập
của
Tổ
quốc.
-
Vào
đầu
những
năm
30
của
thế
kỷ
trước,
khi
còn
ở
trong
nhà
tù
Victoria
của
thực
dân
Anh
ở
Hồng
Kông,
Hồ
Chí
Minh
không
nề
gian
khổ,
đau
đớn,
thậm
chí
hy
sinh
cả
tính
mạng
của
mình,
mà
nổi
lo
lớn
nhất
của
Người
là
những
công
việc
mình
làm
chưa
xong,
ai
sẽ
tiếp
tục
làm
thay.
Người
tâm
sự:
Đối
với
người
cách
mạng,
không
gì
khổ
tâm
bằng
đã
hoạt
động
được,
lại
mất
liên
lạc
với
đoàn
thể
lâu
ngày.
Điều
đó
làm
cho
người
cách
mạng
đêm,
ngày
cô
độc.
-
Khi
trở
lại
Mát-scơ-va,
Người
được
cử
đi
an
dưỡng
một
thời
gian
để
phục
hồi
sức
khỏe.
Tại
Xô-chi
trên
bờ
biển
Đen,
Người
đặt
kế
hoạch
tập
luyện
để
phục
hồi
sức
khỏe,
sẵn
sàng
thực
hiện
nhiệm
vụ
mới.
Trong
thời
gian
nhận
công
tác
tại
Viện
Nghiên
cứu
các
vấn
đề
dân
tộc
và
thuộc
địa,
Người
trăn
trở,
sốt
ruột
về
tình
trạng
“không
hoạt
động”,
coi
đó
là
một
tình
cảnh
đau
buồn,
vì
như
“như
là
sống
ở
bên
cạnh,
ở
bên
ngoài
của
Đảng”.
Người
sốt
sắng
nêu
yêu
cầu
được
hoạt
động,
mong
muốn
nhanh
chóng
được
trở
về
nước
cùng
Đảng
ta
lãnh
đạo
cách
mạng.
-
Ngay
sau
khi
về
nước,
đầy
khó
khăn,
gian
khổ…,
Bác
khẩn
trương
bắt
tay
vào
thực
hiện
nhiều
công
việc
quan
trọng,
chuẩn
bị
khởi
nghĩa
giành
chính
quyền.
Người
kêu
gọi
nhân
dân
tham
gia
Mặt
trận
Việt
Minh,
coi
trách
nhiệm
cứu
quốc
là
việc
chung,
ai
là
người
Việt
Nam
đều
phải
kề
vai
gánh
vác
một
phần
trách
nhiệm.
Người
xác
định
trách
nhiệm
của
mình:
“Riêng
phần
tôi,
xin
đem
hết
tâm
lực
đi
cùng
các
bạn,
vì
đồng
bào
mưu
giành
tự
do
độc
lập,
dầu
phải
hy
sinh
tính
mệnh
cũng
không
hề”
[14].
-
Người
đã
vượt
qua
13
tháng
bị
đọa
đày
trong
hơn
30
nhà
giam
của
chính
quyền
Quốc
dân
Đảng
Trung
Quốc
tại
tỉnh
Quảng
Tây.
Trong
hoàn
cảnh
lao
tù,
Người
xác
định
“Muốn
nên
sự
nghiệp
lớn,
tinh
thần
càng
phải
cao”
[15],
“Tai
ương
rèn
luyện
tinh
thần
thêm
hăng”
[16].
Việc
bị
bắt,
Người
tự
nhận
là
vì
“hành
động
không
đủ
khôn
khéo
để
đồng
bào,
đồng
chí
phải
phiền
lòng”
[17].
Lời
tâm
sự
của
Người
đã
nói
lên
ý
thức
với
tinh
thần
trách
nhiệm
cao
cả:
“
Cả
đời
tôi
chỉ
có
một
mục
đích,
là
phấn
đấu
cho
quyền
lợi
Tổ
quốc,
và
hạnh
phúc
của
nhân
dân.
Những
khi
tôi
phải
ẩn
nấp
nơi
núi
non,
hoặc
ra
vào
chốn
tù
tội,
xông
pha
sự
hiểm
nghèo
-
là
vì
mục
đích
đó…
Bất
kỳ
bao
giờ,
bất
kỳ
ở
đâu,
tôi
chỉ
theo
đuổi
một
mục
đích,
làm
cho
ích
quốc
lợi
dân”
[18]
-
Từ
sau
năm
1945,
với
cương
vị
là
người
đứng
đầu
Đảng
và
Nhà
nước,
trong
hoàn
cảnh
cách
mạng
“ngàn
cân
treo
sợi
tóc”
những
năm
1945
–
1946,
Người
xác
định
trách
nhiệm
quan
trọng
nhất
là
cùng
với
Đảng
với
dân
bảo
vệ
được
nền
độc
lập
dân
tộc
mới
giành
được,
để
xây
dựng
đất
nước,
mang
lại
tự
do,
hạnh
phúc
cho
nhân
dân.
-
Trong
quan
hệ
với
Nhà
nước
và
Nhân
dân,
Hồ
Chí
Minh
nhận
thức
rõ
đó
là
nhận
sự
ủy
thác
của
quốc
dân,
đồng
bào;
hoàn
thành
trách
nhiệm
được
Tổ
quốc
giao
phó
“cũng
như
một
người
lính
vâng
mệnh
lệnh
của
quốc
dân
ra
trước
mặt
trận”
[19]
nhằm
làm
cho
“nước
ta
được
hoàn
toàn
tự
do,
đồng
bào
ai
cũng
có
cơm
ăn
áo
mặc,
ai
cũng
được
học
hành”
[20];
xây
dựng
một
nước
Việt
Nam
hòa
bình,
thống
nhất,
độc
lập,
dân
chủ,
giàu
mạnh
và
góp
phần
xứng
đáng
vào
sự
nghiệp
cách
mạng
thế
giới…
-
Trong
lãnh
đạo
cách
mạng,
có
lúc
Đảng
phạm
sai
lầm,
khuyết
điểm.
Hồ
Chí
Minh
đã
thể
hiện
tinh
thần
dám
chịu
trách
nhiệm,
không
né
tránh,
thay
mặt
Đảng,
Nhà
nước
xin
lỗi
nhân
dân.
Trong
Thư
gửi
đồng
bào
nông
thôn
và
cán
bộ
nhân
dịp
cải
cách
ruộng
đất
ở
miền
Bắc
căn
bản
hoàn
thành,
sau
khi
nêu
những
khuyết
điểm,
sai
lầm
của
Đảng,
Người
viết
“
Trung
ương
Đảng
và
Chính
phủ
đã
nghiêm
khắc
kiểm
điểm
những
sai
lầm,
khuyết
điểm
ấy
và
đã
có
kế
hoạch
kiên
quyết
sửa
chữa,
nhằm
đoàn
kết
cán
bộ,
đoàn
kết
nhân
dân,
ổn
định
nông
thôn,
đẩy
mạnh
sản
xuất”[21].
2.
Tấm
gương
đạo
đức
Hồ
Chí
Minh
về
phong
cách
gương
mẫu,
nói
đi
đôi
với
làm
Trong
suốt
cuộc
đời
hoạt
động
cách
mạng
đầy
gian
khổ,
hy
sinh,
Bác
luôn
là
một
tấm
gương
đạo
đức
mẫu
mực
cho
mọi
người
học
tập
và
noi
theo.
Ở
Người
đã
đạt
tới
sự
thống
nhất
chặt
chẽ
giữa
nói
và
làm,
giữa
giáo
dục
đạo
đức
và
nêu
gương
đạo
đức,
đạt
tới
sự
nhất
quán
giữa
công
việc
và
đời
tư,
giữa
đạo
đức
vĩ
nhân
và
đạo
đức
đời
thường.
Khi
địa
vị
càng
cao,
uy
tín
càng
lớn,
Hồ
Chí
Minh
càng
ra
sức
tự
hoàn
thiện,
trở
thành
tấm
gương
đạo
đức
trọn
vẹn.
Người
cho
rằng:
“Nói
chung
thì
các
dân
tộc
phương
Đông
đều
giàu
tình
cảm,
và
đối
với
họ
một
tấm
gương
sống
còn
có
giá
trị
hơn
một
trăm
bài
diễn
văn
tuyên
truyền”.
Người
đòi
hỏi
mỗi
cán
bộ,
đảng
viên
phải
làm
kiểu
mẫu
trong
công
tác
và
lối
sống,
trong
mọi
lúc,
mọi
nơi,
nói
phải
đi
đôi
với
làm
để
quần
chúng
noi
theo.
Những
vấn
đề
cần
nắm
vững
khi
học
tập
và
làm
theo
phong
cách
gương
mẫu:
Học
tập
và
làm
theo
phong
cách
gương
mẫu
của
Người
là
một
việc
làm
rất
quan
trọng
và
cần
thiết
đối
với
sự
nghiệp
cách
mạng
ở
nước
ta
hiện
nay.
Đây
là
trách
nhiệm,
đồng
thời
cũng
là
vinh
dự
của
người
cán
bộ
cách
mạng.
Trong
đó,
mỗi
cán
bộ,
đảng
viên
cần
chú
ý
một
số
vấn
đề
cơ
bản
sau.
Một
là,
trong
mọi
hoạt
động
lãnh
đạo
và
quản
lý,
cán
bộ,
đảng
viên
phải
luôn
luôn
phát
huy
vai
trò
độc
lập,
tự
chủ,
sáng
tạo,
dám
nghĩ,
dám
làm,
lấy
lợi
ích
của
Đảng,
của
nhân
dân
làm
cơ
sở
cho
hoạt
động
của
mình.Đây
là
một
yêu
cầu
rất
quan
trọng,
thể
hiện
vai
trò
tiên
phong
gương
mẫu
đối
với
sự
nghiệp
cách
mạng
của
Đảng
và
của
dân
tộc.
“Đảng
viên
đi
trước,
làng
nước
theo
sau”,
người
đảng
viên
không
sợ
khó,
không
sợ
khổ
mà
phải
tiên
phong
trên
tất
cả
các
lĩnh
vực
của
đời
sống
xã
hội,
phải
làm
gương
trong
mọi
công
việc
từ
nhỏ
đến
lớn,
thể
hiện
thường
xuyên,
về
mọi
mặt,
phải
cần,
kiệm,
liêm,
chính,
chí
công,
vô
tư,
nói
đi
đôi
với
làm,
trong
đó
chủ
yếu
trên
ba
mối
quan
hệ
đối
với
mình,
đối
với
người,
đối
với
việc.
Hai
là,
cán
bộ,
đảng
viên
phải
luôn
gần
dân,
sâu
sát
dân,
nắm
bắt
được
nguyện
vọng
của
quần
chúng
nhân
dân.
Đảng
ta
là
đảng
cầm
quyền,
vì
vậy,
nhiều
cán
bộ,
đảng
viên
là
những
người
lãnh
đạo,
quản
lý.
Theo
Bác
Hồ,
đội
ngũ
cán
bộ
muốn
hoàn
thành
tốt
nhiệm
vụ
thì
phương
pháp
lãnh
đạo,
phong
cách
quản
lý,
cách
tổ
chức,
cách
đặt
kế
hoạch
phải
phù
hợp
với
quần
chúng.
“Bất
cứ
việc
to
việc
nhỏ,
chúng
ta
phải
xét
rõ
và
làm
cho
hợp
trình
độ
văn
hóa,
thói
quen
sinh
hoạt,
trình
độ
giác
ngộ,
kinh
nghiệm
tranh
đấu,
lòng
ham,
ý
muốn,
tình
hình
thiết
thực
của
quần
chúng,
Do
đó
mà
dịnh
cách
làm
việc,
các
tổ
chức.
Có
như
thế,
mới
có
thể
kéo
được
quần
chúng”.
“Bao
nhiêu
cách
tổ
chức
và
cách
làm
việc,
đều
vì
lợi
ích
của
quần
chúng,
vì
cần
cho
quần
chúng.
Vì
vậy,
các
tổ
chức
và
cách
làm
việc
nào
không
phù
hợp
với
quần
chúng
thì
ta
phải
có
gan
đề
nghị
lên
cấp
trên
để
bỏ
đi
hoặc
sửa
lại.
Cách
nào
hợp
với
quần
chúng,
quần
chúng
cần,
thì
dù
chưa
có
sẵn,
ta
phải
đề
nghị
lên
cấp
trên
mà
đặt
ra.
Nếu
cần
làm
thì
cứ
đặt
ra,
rồi
báo
cáo
sau,
miễn
là
được
việc”.
Trong
chế
độ
xã
hội
mới,
“bao
nhiêu
lợi
ích
đều
về
dân”,
do
vậy,
đội
ngũ
cán
bộ
phải
luôn
sâu
sát
quần
chúng,
xuất
phát
từ
quần
chúng
để
rèn
luyện,
điều
chỉnh
tác
phong,
phương
pháp
làm
việc.
Ba
là,
cán
bộ,
đảng
viên
phải
luôn
luôn
gương
mẫu
trong
công
tác
cũng
như
trong
đời
sống
sinh
hoạt
hàng
ngày.
Cán
bộ,
đảng
viên
với
tư
cách
là
những
người
lãnh
đạo,
quản
lý,
ví
như
“cái
đầu”,
“bộ
óc”
của
quần
chúng
nhân
dân,
do
vậy,
cán
bộ,
đảng
viên
phải
là
người
tiên
phong
gương
mẫu
trong
mọi
hoàn
cảnh.
Tiên
phong,
gương
mẫu
đòi
hỏi
đội
ngũ
cán
bộ
phải
miệng
nói,
tay
làm,
thống
nhất
lời
nói
với
hành
động,
thực
hiện
lý
luận
gắn
với
thực
tiễn.
Đây
là
những
biểu
hiện
không
thể
thiếu
của
tác
phong
sâu
sát
thực
tế,
là
yếu
tố
tạo
nên
niềm
tin
của
quần
chúng.
Cơ
sở
tạo
nên
sự
bền
vững
của
mối
quan
hệ
cán
bộ-nhân
dân.
Mỗi
cán
bộ,
đảng
viên
phải
hết
sức
nghiêm
túc
thực
hiện
cần,
kiệm,
liêm,
chính,
chí
công,
vô
tư,
kiên
quyết
đấu
tranh
với
tệ
quan
liêu,
tham
nhũng,
lãng
phí
…
Bởi
lẽ,
cần
kiệm,
liêm,
chính
là
những
giá
trị,
chuẩn
mực
cốt
lõi
nhất
của
đạo
đức
cách
mạng.
Trong
thực
tế,
có
thực
hiện
cần,
kiệm,
liêm,
chính,
người
cán
bộ
cách
mạng
mới
được
dân
mến,
dân
tin,
dân
phục,
mới
có
thể
công
tâm,
sâu
sát,
gắn
bó
mật
thiết
với
quần
chúng
nhân
dân.
Mặt
khác,
danh
dự
và
uy
tín
của
người
cán
bộ
cách
mạng
biểu
hiện
tập
trung
nhất
trong
hiệu
quả
của
hành
động
cách
mạng.
Bởi
vậy,
lãng
phí
xa
hoa,
phô
trương
hình
thức
luôn
luôn
xa
lạ
với
những
người
có
tác
phong
sâu
sát
quần
chúng.
Hồ
Chí
Minh
phê
phán:
Có
người
cho
rằng
“Phải
ăn
mặc
bảnh
mới
giữ
được
oai
tín,
giữ
được
thể
diện.
Nói
thế
hết
sức
sai.
Muốn
có
oai
tín
thể
diện,
thì
phải
làm
việc
cho
giỏi.
Nếu
ăn
mặc
bảnh,
mà
được
oai
tín
thể
diện,
thì
mấy
chàng
Sở
Khanh
chẳng
nhiều
thể
diện
oai
tín
lắm
ư”.
Hiện
nay,
có
không
ít
cán
bộ
ăn
chơi
hoang
phí,
xa
xỉ,
trong
khi
nhân
dân
còn
nhiều
người
nghèo
khổ,
họ
không
biết
hoặc
cố
tình
quên
rằng,
hoang
phí,
lãng
phí
công
sức,
tiền
của
nhân
dân
“là
một
tội
ác”.
Cũng
có
không
ít
cán
bộ
thể
hiện
uy
tín,
thể
diện
của
mình
bằng
những
trang
bị
vật
chất
xa
hoa
mà
ít
quan
tâm
đến
hiệu
quả
công
việc,
đến
nguyện
vọng
của
quần
chúng
nhân
dân;
họ
không
biết
rằng,
làm
như
vậy
là
họ
đã
tự
xa
dân,
tự
đánh
mất
đi
niềm
tin
của
quần
chúng.
Tấm
gương
của
Bác
về
“nói
đi
đôi
với
làm”:
-
Nói
đi
đôi
với
làm
là
một
trong
những
phẩm
chất
sáng
ngời
của
Chủ
tịch
Hồ
Chí
Minh.
Theo
các
nhà
nghiên
cứu,
toàn
bộ
cuộc
đời
Hồ
Chí
Minh
thực
hành
năm
nội
dung
căn
cốt
nhất:
Thực
hành
lý
luận;
thực
hành
dân
chủ;
thực
hành
dân
vận;
thực
hành
đại
đoàn
kết;
thực
hành
đạo
đức
cách
mạng
và
đạo
đức
làm
người.
Thực
hành
nghĩa
là
nói
thống
nhất
với
làm,
chú
trọng
làm,
nói
ít
làm
nhiều.
-
Hồ
Chí
Minh
thường
nhắc
nhở:
Nói
cái
gì
phải
cho
dân
tin
-
nói
và
làm
cho
nhất
quán.
Với
quan
niệm
đó,
trong
suốt
cuộc
đời
mình,
Người
đã
thực
hiện
một
cách
nghiêm
túc
và
đầy
đủ
nói
đi
đôi
với
làm.
Ở
Hồ
Chí
Minh,
lời
nói
đi
đôi
với
hành
động,
lý
luận
đi
đôi
với
thực
tiễn,
nói
là
để
mà
làm,
làm
phải
đúng
như
đều
đã
nghĩ,
đã
nói.
Hơn
nữa,
Người
nói
ít,
nhưng
làm
nhiều,
có
những
vấn
đề
đạo
đức
Người
không
nói
mà
chỉ
làm.
Thống
nhất
giữa
lời
nói
và
việc
làm
là
nguyên
tắc
đạo
đức
của
Hồ
Chí
Minh,
là
sự
thể
hiện
tấm
gương
thực
hành
đạo
đức
của
bản
thân
Người.
-
Sức
thuyết
phục
mạnh
mẽ
trong
tấm
gương
đạo
đức
của
Hồ
Chí
Minh
là
ở
chỗ,
nói
luôn
luôn
đi
đôi
với
làm,
dù
việc
lớn
hay
nhỏ,
tự
mình
phải
làm
gương
trước.
Người
quan
niệm:
“Muốn
hướng
dẫn
nhân
dân,
mình
phải
làm
mực
thước
cho
người
ta
bắt
chước…”
[22];
tự
mình
phải
chính
trước,
mới
giúp
người
khác
chính,
mình
không
chính
mà
muốn
người
khác
chính
là
vô
lý.
“Nếu
chính
mình
tham
ô
bảo
người
ta
liêm
khiết
có
được
không?
Không
được.
Mình
trước
hết
phải
siêng
năng,
trong
sạch
thì
mới
bảo
người
ta
trong
sạch,
siêng
năng
được…”
[23].
Tấm
gương
nói
đi
đôi
với
làm
của
Hồ
Chí
Minh
bắt
nguồn
từ
quan
niệm
của
Người,
từ
lòng
dạ
trong
sáng,
chính
tâm,
thật
sự
nêu
gương
của
Người.
-
Trong
cuộc
đời
của
Chủ
tịch
Hồ
Chí
Minh
đã
có
biết
bao
câu
chuyện
cảm
động
về
việc
nêu
gương,
nói
đi
đôi
với
làm:
Năm
1945,
trước
nạn
đói
trên
miền
Bắc,
Người
đề
xuất
toàn
dân
tiết
kiệm
gạo
giúp
đồng
bào
bị
đói
và
Người
kêu
gọi:
“tôi
xin
đề
nghị
với
đồng
bào
cả
nước,
và
xin
thực
hành
trước:
Cứ
10
ngày
nhịn
ăn
một
bữa,
mỗi
tháng
nhịn
3
bữa….”[24].
Những
năm
kinh
tế
khó
khăn,
mọi
người
ăn
cơm
độn
ngô,
khoai,
sắn,
Người
đề
nghị
nhà
bếp
là:
cán
bộ,
nhân
dân
ăn
độn
bao
nhiêu
phần
trăm,
phải
nấu
cơm
độn
cho
Người
từng
ấy.
Trong
nhiều
chuyến
thăm
các
địa
phương,
nhất
là
các
chuyến
đi
trong
ngày,
Hồ
Chí
Minh
mang
theo
cơm
nắm
với
muối
vừng.
Người
nói:
Người
ta
dọn
ra
một
bữa
cơm
sang,
có
khi
Bác
chẳng
ăn
đâu,
nhưng
rồi
để
lại
cái
tiếng:
Đấy,
Bác
Hồ
đến
thăm
còn
làm
một
bữa
cơm
sang,
còn
điều
người
này,
người
khác
từ
giao
tế
sang,
chuẩn
bị
cả
buổi.
Thế
là
tự
Bác
bao
che
cho
cái
chuyện
xôi
thịt.
Khi
ăn
cơm,
không
bao
giờ
Người
để
rơi
cơm,
Bác
bảo
một
hạt
cơm
là
một
giọt
mồ
hôi
của
người
nông
dân.
Đồng
chí
Phạm
Văn
Đồng
đã
nói:
ăn
cơm
với
Cụ
hàng
trăm
lần,
lần
nào
cũng
thấy
Cụ
không
để
rơi
một
hạt
cơm.
Bởi
vì,
Cụ
quý
và
tiết
kiệm
công
sức
của
người
làm
ra
lúa
gạo.
Chuyện
nhỏ
đức
lớn
hài
hòa
ở
một
con
người.
Người
khước
từ
ở
ngôi
nhà
sang
trọng
của
Toàn
quyền
Đông
Dương
trước
đây
mà
chỉ
ở
ngôi
nhà
của
người
thợ
điện;
thường
đi
dép
lốp,
mặc
áo
vá
vai,
dùng
chiếc
ô
tô
cũ,
coi
đó
là
“cái
phúc
của
dân,
đừng
bỏ
cái
phúc
đó
đi”.
Mùa
hè
nóng
bức,
Người
dùng
chiếc
quạt
lá
cọ,
“để
dành
điện
phục
vụ
cho
sản
xuất,
dành
điện
phục
vụ
sinh
hoạt
nhân
dân”.
Bác
làm
những
việc
như
thế,
để
thực
hiện
điều
Người
nói:
Cơm
chúng
ta
ăn,
áo
chúng
ta
mặc,
vật
liệu
chúng
ta
dùng,
điều
do
mồ
hôi
nước
mắt
của
nhân
dân
mà
ra.
Vì
vậy,
chúng
ta
phải
đền
bù
xứng
đáng
cho
nhân
dân.
Muốn
làm
được
như
vậy,
chúng
ta
cần
phải
cố
gắng
thực
hiện,
cần,
kiệm,
liêm,
chính.
Người
nói:
Ai
chẳng
muốn
cơm
no,
ấm
áo.
Nhưng
cuộc
sống
vật
chất
hết
đời
người
là
hết.
Còn
tiếng
tăm
tốt
xấu
truyền
đến
ngàn
đời
sau.
Người
còn
nói:
Ở
đời
ai
cũng
muốn
ăn
ngon,
mặc
đẹp.
Điều
đó
là
bình
thường.
Nhưng
ăn
ngon
mặc
đẹp
một
mình
liệu
coi
có
được
không!
Hồ
Chí
Minh
thấm
nhuần
sâu
sắc
đặc
trưng
văn
hóa
phương
Đông
là
coi
trọng
hành
động,
triết
lý
“vô
ngôn”,
“tri
hành
hợp
nhất”…
Từ
đó,
Người
thường
giải
thích
lý
luận
bằng
thực
tiễn,
bằng
hành
động,
bằng
việc
làm,
vì
thấy
làm
đúng,
làm
phải,
mọi
người
khắc
làm
theo.
Thủ
tướng
Phạm
Văn
Đồng
nhận
xét:
“Mọi
lời
nói,
việc
làm
của
Hồ
Chí
Minh
đều
thiết
thực
và
cụ
thể”.
Nói
là
làm,
thường
là
làm
nhiều
hơn
nói,
có
khi
làm
mà
không
cần
nói,
tư
tưởng
thể
hiện
trong
hành
động.
Phẩm
chất
nói
đi
đôi
với
làm
của
Hồ
Chí
Minh
đã
dạy
chúng
ta
về
lẽ
sống
“thật”,
đối
lập
với
giả
dối.
Người
phê
phán
nghiêm
khắc:
“Có
những
người
miệng
thì
nói:
phụng
sự
Tổ
quốc,
phụng
sự
nhân
dân,
nhưng
bị
vật
chất
dỗ
dành
mà
phạm
vào
tham
ô,
lãng
phí,
hại
đến
Tổ
quốc,
nhân
dân”
[25].
III.
HỌC
TẬP
VÀ
LÀM
THEO
TƯ
TƯỞNG,
TẤM
GƯƠNG
ĐẠO
ĐỨC
HỒ
CHÍ
MINH
VỀ
NÊU
CAO
TINH
THẦN
TRÁCH
NHIỆM,
PHONG
CÁCH
GƯƠNG
MẪU,
NÓI
ĐI
ĐÔI
VỚI
LÀM
1.
Sự
cần
thiết
phải
học
tập
và
làm
theo
tư
tưởng,
tấm
gương
đạo
đức
Hồ
Chí
Minh
về
nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm,
phong
cách
gương
mẫu,
nói
đi
đôi
với
làm
trong
giai
đoạn
hiện
nay
-
Học
tập
và
làm
theo
tư
tưởng,
tấm
gương
đạo
đức,
phong
cách
Hồ
Chí
Minh
đối
với
Đảng
và
nhân
dân
ta
là
công
việc
thường
xuyên
lâu
dài,
quan
trọng,
bởi
tư
tưởng
Hồ
Chí
Minh
là
nền
tảng
tư
tưởng
của
Đảng
ta,
tấm
gương
đạo
đức,
phong
cách
Hồ
Chí
Minh
là
những
di
sản
tinh
thần
vô
cùng
to
lớn
để
lại
cho
chúng
ta.
Tuy
nhiên,
trong
mỗi
giai
đoạn
cách
mạng,
việc
học
tập
và
làm
theo
Bác
có
những
trọng
tâm,
trọng
điểm,
gắng
với
bối
cảnh,
điều
kiện
và
yêu
cầu
đặt
ra
trong
sự
nghiệp
xây
dựng,
bảo
vệ
Tổ
quốc,
xây
dựng
Đảng.
Trong
giai
đoạn
cách
mạng
hiện
nay,
thực
hiện
Cương
lĩnh
xây
dựng
đất
nước
trong
thời
kỳ
quá
độ
lên
chủ
nghĩa
xã
hội
(bổ
sung,
phát
triển
năm
2011),
Chiến
lược
phát
triển
kinh
tế
-
xã
hội
2011
-
2020,
đất
nước
đang
đứng
trước
những
cơ
hội
lớn,
đồng
thời
với
những
thách
thức
lớn.
Các
quá
trình
lớn
mang
tính
thời
đại
đang
diễn
ra
hiện
nay,
như:
Sự
phát
triển
mạnh
mẽ
của
khoa
học
và
công
nghệ,
toàn
cầu
hóa,
liên
kết
kinh
tế
quốc
tế
và
khu
vực,
biến
đổi
khí
hậu,
cạn
kiệt
tài
nguyên,
ô
nhiễm
môi
trường…
đang
đặt
ra
cho
mỗi
quốc
gia
dân
tộc,
trong
đó
có
Việt
Nam,
nhiều
vấn
đề
cần
phải
giải
quyết.
Ở
trong
nước,
thế
và
lực,
sức
mạnh
tổng
hợp
của
đất
nước
tăng
lên,
uy
tín
quốc
tế
của
đất
nước
ngày
càng
được
nâng
cao,
tạo
ra
những
tiền
đề
quan
trọng
để
thực
hiện
nhiệm
vụ
xây
dựng
và
bảo
vệ
Tổ
quốc.
Những
năm
tới
đây
là
thời
kỳ
Việt
Nam
thực
hiện
đầy
đủ
các
cam
kết
trong
Cộng
đồng
ASEAN
và
WTO,
tham
gia
các
hiệp
định
thương
mại
tự
do
thế
hệ
mới,
hội
nhập
quốc
tế
với
tầm
mức
sâu
rộng
hơn
nhiều
so
với
giai
đoạn
trước,
đòi
hỏi
Đảng,
Nhà
nước
và
nhân
dân
ta
phải
nỗ
lực
rất
cao
để
tận
dụng
thời
cơ,
vượt
qua
những
thách
thức
lớn
trong
quá
trình
hội
nhập.
Kinh
tế
đã
từng
bước
ra
khỏi
tình
trạng
suy
giảm,
lấy
lại
đà
tăng
trưởng,
nhưng
vẫn
còn
nhiều
khó
khăn,
thách
thức.
Kinh
tế
vĩ
mô
ổn
định
chưa
vững
chắc;
nợ
công
tăng
nhanh,
nợ
xấu
đang
giảm
dần
nhưng
còn
ở
mức
cao,
năng
suất,
chất
lượng,
hiệu
quả,
sức
cạnh
tranh
kinh
tế
thấp.
Bốn
nguy
cơ
mà
Đảng
ta
đã
chỉ
ra
tiếp
tục
tồn
tại,
nhất
là
nguy
cơ
tụt
hậu
xa
hơn
về
kinh
tế
so
với
các
nước
trong
khu
vực
và
trên
thế
giới,
nguy
cơ
"diễn
biến
hoà
bình"
của
thế
lực
thù
địch
nhằm
chống
phá
nước
ta;
tình
trạng
suy
thoái
về
tư
tưởng
chính
trị,
đạo
đức,
lối
sống,
những
biểu
hiện
"tự
diễn
biến",
"tự
chuyển
hoá"
trong
một
bộ
phận
cán
bộ,
đảng
viên,
công
chức,
viên
chức
và
tệ
quan
liêu,
tham
nhũng,
lãng
phí
diễn
biến
phức
tạp;
khoảng
cách
giàu
-
nghèo,
phân
hoá
xã
hội
ngày
càng
tăng,
đạo
đức
xã
hội
có
mặt
xuống
cấp
đáng
lo
ngại,
làm
giảm
lòng
tin
của
cán
bộ,
đảng
viên
và
nhân
dân
vào
Đảng
và
Nhà
nước.
Bảo
vệ
chủ
quyền
biển,
đảo
đứng
trước
nhiều
khó
khăn,
thách
thức
lớn.
Tình
hình
chính
trị
-
xã
hội
ở
một
số
địa
bàn
còn
tiềm
ẩn
nguy
cơ
mất
ổn
định.
Đảng
đang
tiếp
tục
kiên
trì,
kiên
quyết
thực
hiện
Nghị
quyết
Trung
ương
4
“Một
số
vấn
đề
cấp
bách
về
xây
dựng
Đảng
hiện
nay”
để
ngăn
chặn,
đẩy
lùi
tình
trạng
suy
thoái
về
tư
tưởng
chính
trị,
đạo
đức,
lối
sống
trong
một
bộ
phận
cán
bộ,
đảng
viên;
củng
cố
niềm
tin
của
Nhân
dân.
Tình
hình
thế
giới
và
trong
nước
tạo
ra
cả
thời
cơ,
thuận
lợi
và
khó
khăn,
thách
thức
đan
xen;
đặt
ra
nhiều
vấn
đề
mới,
yêu
cầu
mới
to
lớn,
phức
tạp
hơn
đối
với
sự
nghiệp
đổi
mới,
phát
triển
đất
nước
và
bảo
vệ
độc
lập,
chủ
quyền,
thống
nhất,
toàn
vẹn
lãnh
thổ
của
Tổ
quốc,
đòi
hỏi
Đảng,
Nhà
nước
và
nhân
dân
ta
phải
nỗ
lực
phấn
đấu
mạnh
mẽ
hơn.
Bối
cảnh
chung
đó
đang
yêu
cầu
tăng
cường
giáo
dục
đạo
đức,
lối
sống
trong
Đảng
và
xã
hội
theo
tư
tưởng,
tấm
gương
của
Chủ
tịch
Hồ
Chí
Minh,
tập
trung
vào
chủ
đề
“Nâng
cao
tinh
thần
trách
nhiệm,
phong
cách
gương
mẫu,
nói
đi
đôi
với
làm”.
Nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm,
phong
cách
gương
mẫu,
nói
đi
đôi
với
làm
còn
trực
tiếp
góp
phần
tạo
chuyển
biến
căn
bản,
mạnh
mẽ
về
chất
lượng,
hiệu
quả
giáo
dục,
đào
tạo;
đáp
ứng
ngày
càng
tốt
hơn
công
cuộc
xây
dựng,
bảo
vệ
Tổ
quốc.
Giáo
dục
con
người
Việt
Nam
phát
triển
toàn
diện
và
phát
huy
tốt
nhất
tiềm
năng,
khả
năng
sáng
tạo
của
mỗi
cá
nhân;
yêu
gia
đình,
yêu
Tổ
quốc,
yêu
đồng
bào;
sống
tốt
và
làm
việc
hiệu
quả.
Góp
phần,
hoàn
thiện
các
chuẩn
mực
giá
trị
văn
hóa
và
con
người
Việt
Nam,
tạo
môi
trường
và
điều
kiện
để
phát
triển
về
nhân
cách,
đạo
đức,
trí
tuệ,
năng
lực
sáng
tạo,
thể
chất,
tâm
hồn,
trách
nhiệm
xã
hội,
nghĩa
vụ
công
dân,
ý
thức
tuân
thủ
pháp
luật;
đề
cao
tinh
thần
yêu
nước,
tự
hào
dân
tộc,
lương
tâm,
trách
nhiệm
của
mỗi
người
với
bản
thân
mình,
với
gia
đình,
cộng
đồng,
xã
hội
và
đất
nước.
2.
Nội
dung
học
tập
và
làm
theo
tấm
gương
đạo
đức
Hồ
Chí
Minh
về
nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm,
phong
cách
gương
mẫu,
nói
đi
đôi
với
làm
2.1.
Nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm
trong
thực
hiện
mục
tiêu
dân
giàu,
nước
mạnh,
dân
chủ,
công
bằng,
văn
minh
-
Trách
nhiệm
cán
bộ,
đảng
viên,
công
chức
đối
với
Tổ
quốc
và
nhân
dân
hiện
nay
là
nổ
lực
phấn
đấu
để
thực
hiện
mục
tiêu
cao
cả
đó.
Từ
trách
nhiệm
chung,
mỗi
cán
bộ
công
chức
phải
hoàn
thành
nhiệm
vụ,
chức
trách
được
giao.
Đặc
biệt
chú
ý
tới
những
công
việc
liên
quan
trực
tiếp
tới
đời
sống
hàng
ngày
của
người
dân.
-
Nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm
là
mỗi
cán
bộ,
đảng
viên
phải
xác
định
mình
là
công
bộc
của
dân.
Cần
nhận
thức
sâu
sắc
rằng,
công
chức
không
chỉ
là
một
chức
danh
mà
là
một
sứ
mệnh.
Sứ
mệnh
phụng
sự
Tổ
quốc,
phục
vụ
nhân
dân
là
thiêng
liêng
và
cao
cả.
Cán
bộ,
đảng
viên,
công
chức
là
những
người
tiêu
biểu,
tiên
tiến
trong
nhân
dân,
phải
nêu
gương
trước
nhân
dân.
-
Cán
bộ,
công
chức
không
được
lầm
lẫn
giữa
sự
ủy
quyền
của
Nhân
dân
với
quyền
lực
cá
nhân,
dẫn
tới
chạy
chức,
chạy
quyền,
mua
quyền,
bán
quyền,
lộng
quyền,
cửa
quyền,
tham
quyền
cố
vị…
Khi
có
quyền
mà
thiếu
lương
tâm
thì
không
thể
nói
tới
phụng
sự
Tổ
quốc,
phục
vụ
nhân
dân
mà
sẽ
trở
nên
hủ
bại,
biến
thành
sâu
mọt,
đục
khoét
của
dân.
Trong
điều
kiện
cơ
chế
kinh
tế
thị
trường,
mỗi
cán
bộ,
đảng
viên,
công
chức
càng
phải
luôn
cảnh
giác,
đề
phòng
giặc
“trong
lòng”,
nguy
cơ
“tự
diễn
biến”...
-
Nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm
là
quán
triệt,
thực
hiện
những
lời
dạy
của
Bác
trong
điều
kiện
và
hoàn
cảnh
mới.
Nhưng
cái
lớn
nhất,
xuyên
suốt,
không
thay
đổi
là
thực
hiện
lý
tưởng
độc
lập
dân
tộc
và
chủ
nghĩa
xã
hội.
Phải
biến
ý
chí,
tinh
thần
trách
nhiệm
trong
sự
nghiệp
giành
độc
lập
dân
tộc,
trong
chiến
đấu
xóa
nổi
nhục
nô
lệ,
lầm
than
thành
ý
chí
tinh
thần
trách
nhiệm
trong
xây
dựng
đất
nước
và
xã
hội
mới,
nhằm
xóa
nỗi
nhục
nghèo
nàn,
lạc
hậu.
-
Phải
cụ
thể
hóa
những
lời
dạy
của
Hồ
Chí
Minh
về
các
chuẩn
mực
đạo
đức
cách
mạng
đối
với
từng
loại
cán
bộ,
công
chức
để
tổ
chức
thực
hiện
thiết
thực,
có
hiệu
quả.
Mỗi
người
phải
xác
định
rõ
cách
thức
và
mức
độ
thể
hiện
tinh
thần
trách
nhiệm,
ý
thức
phụng
sự
Tổ
quốc,
phục
vụ
nhân
dân
thông
qua
nhiệm
vụ
cụ
thể,
trong
từng
hoàn
cảnh
cụ
thể.
Khi
mỗi
cán
bộ,
đảng
viên,
công
chức
thấm
nhuần,
quán
triệt
sâu
sắc
tư
tưởng
và
tấm
gương
vì
nước
quên
thân,
vì
dân
phục
vụ
của
Người,
chắc
chắn
có
thể
vận
dụng
và
thực
hành
tốt
trong
cương
vị
công
tác
của
mình.
2.2.
Thực
hiện
tốt
phong
cách
gương
mẫu,
nói
đi
đôi
với
làm
Trách
nhiệm
gương
mẫu:
Theo
Qui
định
số
101-QĐ/TW
ngày
7/6/2012
của
Ban
Bí
thư
về
trách
nhiệm
nêu
gương
của
cán
bộ,
đảng
viên,
nhất
là
cán
bộ
lãnh
đạo
chủ
chốt
các
cấp,
yêu
cầu
cán
bộ
có
chức
vụ
càng
cao
thì
càng
phải
gương
mẫu.
Một
trong
những
nội
dung
phải
gương
mẫu
là:
tác
phong
sâu
sát
thực
tế,
gần
gũi
để
thấu
hiểu
tâm
tư,
nguyện
vọng
chính
đáng
của
quần
chúng
nhân
dân.
Nêu
cao
ý
thức
phục
vụ
nhân
dân;
làm
việc
với
thái
độ
khách
quan,
công
tâm,
tập
trung
sức
giải
quyết
những
lợi
ích
chính
đáng
của
nhân
dân;
lắng
nghe
tâm
tư,
nguyện
vọng
của
nhân
dân,
chủ
động
đối
thoại
với
nhân
dân
và
cán
bộ
dưới
quyền.
Kiên
quyết
đấu
tranh
với
những
biểu
hiện
vô
cảm,
quan
liêu,
cửa
quyền,
hách
dịch
và
các
hành
vi
nhũng
nhiễu,
gây
phiền
hà
nhân
dân.
Quy
định
về
trách
nhiệm
nêu
gương
cũng
yêu
cầu
mỗi
cán
bộ,
đảng
viên,
nhất
là
cán
bộ
lãnh
đạo
chủ
chốt
phải
có
kế
hoạch
tu
dưỡng,
rèn
luyện
theo
cương
vị
công
tác
của
mình
và
báo
cáo
với
chi
bộ,
cấp
ủy
nơi
công
tác
để
được
góp
ý,
giúp
đỡ,
giám
sát,
tạo
điều
kiện
thực
hiện,
coi
đây
là
một
trong
những
căn
cứ
để
đánh
giá
cán
bộ,
đảng
viên
cuối
năm.
Mỗi
cán
bộ,
đảng
viên
hằng
ngày
đều
tự
xem
xét
lại
mình,
xem
xét
cái
gì
đúng,
cái
gì
sai,
nguyên
nhân
vì
đâu
và
suy
nghĩ,
tìm
cách
sửa
chữa
để
làm
việc
tốt
hơn,
sống
đẹp
hơn.
Người
cán
bộ,
đảng
viên
cần
khiêm
tốn
lắng
nghe,
tiếp
thu
ý
kiến
phê
bình
của
đồng
chí,
của
quần
chúng,
của
cấp
dưới
từ
đó
chuyển
thành
nhận
thức
và
hành
động
tự
giác.
Đây
là
vấn
đề
rất
quan
trọng
đối
với
việc
rèn
luyện
phong
cách
người
cán
bộ
cách
mạng.
Chính
phong
cách
đó
là
cơ
sở
để
cho
hoạt
động
của
người
cán
bộ
ngày
càng
hiệu
quả,
và
là
tấm
gương
đối
với
quần
chúng
nhân
dân,
góp
phần
củng
cố
lòng
tin
của
họ
vào
sự
lãnh
đạo
của
Đảng
đối
với
sự
nghiệp
cách
mạng.
Nói
đi
đôi
với
làm:
-
Hiện
nay
trong
Đảng
và
xã
hội
ta,
tình
trạng
“nói
không
đi
đôi
với
làm”,
“nói
một
đàng
làm
một
nẻo”,
“nói
mà
không
làm”,
“nghĩ
một
đàng,
nói
một
đàng”,
“nói
với
cấp
trên
khác,
nói
với
cấp
dưới
khác”
đang
diễn
ra
ở
nhiều
nơi,
ở
không
ít
người.
Bệnh
nói
dối,
làm
sai,
dối
cấp
trên,
dối
dân
để
bớt
xén
vì
lòng
tham,
bao
che
khuyết
điểm
cho
nhau,
hình
thành
phe
phái…
đang
gây
bức
xúc
trong
xã
hội,
làm
mất
niềm
tin
trong
nhân
dân.
-
Thực
hiện
“nói
đi
đôi
với
làm”
là
phát
huy
truyền
thống
đạo
đức
quý
báu
của
dân
tộc,
là
thực
hành
đạo
đức
cách
mạng.
Phải
thực
hiện
từ
trên
xuống
dưới,
từ
người
lãnh
đạo
cấp
cao
đến
cán
bộ,
đảng
viên,
công
chức
bình
thường.
Phải
kiên
quyết
xóa
bỏ
những
quy
định
quản
lý
lỗi
thời
buộc
mọi
người
gần
như
đồng
tình
với
những
việc
“hợp
pháp”
nhưng
rất
không
hợp
lý…
Phải
thực
hiện
công
khai
minh
bạch,
trước
hết
là
chức
trách
của
mỗi
người
để
có
sự
kiểm
tra,
giám
sát
của
tổ
chức,
của
Nhân
dân.
Trong
giải
pháp
để
thực
hiện
“nói
đi
đôi
với
làm”,
rất
cần
giáo
dục
lòng
tự
trọng,
tinh
thần
trách
nhiệm
của
mỗi
người,
chống
chủ
nghĩa
cá
nhân
trong
chính
mỗi
người.
-
Nói
đi
đôi
với
làm
là
để
hướng
dẫn
nhân
dân
làm
theo,
đặc
biệt
là
với
thế
hệ
trẻ.
Chủ
tịch
Hồ
Chí
Minh
đã
từng
căn
dặn:
“Muốn
hướng
dẫn
nhân
dân,
mình
phải
làm
mực
thước
cho
người
ta
bắt
chước”
[26].
Nói
đi
đôi
với
làm
phải
gắn
với
nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm,
vai
trò
gương
mẫu
và
chống
chủ
nghĩa
cá
nhân.
Chỉ
trên
cơ
sở
này,
cán
bộ,
đảng
viên
mới
thu
phục
được
quần
chúng,
mới
cảm
hóa,
lôi
kéo
họ
tạo
thành
phong
trào
thực
tiễn
rộng
lớn
để
xây
dựng,
phát
triển
đất
nước,
thực
hiện
nghị
quyết
của
Đảng.
2.3.
Đưa
việc
học
tập
và
làm
theo
tấm
gương
đạo
đức
Hồ
Chí
Minh
trở
thành
công
việc
thường
xuyên,
quan
trọng
của
tổ
chức
đảng,
chính
quyền,
đoàn
thể,
mỗi
cán
bộ,
đảng
viên,
công
chức,
gắn
với
công
tác
xây
dựng
Đảng,
chính
quyền
nhà
nước
trong
sạch,
vững
mạnh
Trong
thực
hành
làm
theo
tấm
gương
đạo
đức
của
Bác
Hồ,
việc
nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm,
phong
cách
gương
mẫu,
nói
đi
đôi
với
làm
phải
gắn
chặt
với
nhau,
phải
thực
hiện
đồng
thời
với
cần,
kiệm,
liêm,
chính,
chí
công,
vô
tư,
hết
lòng,
hết
sức
phụng
sự
Tổ
quốc,
phục
vụ
nhân
dân.
Đặc
biệt
cần
nêu
cao
trách
nhiệm
gương
mẫu
của
cán
bộ,
đảng
viên,
nhất
là
cán
bộ
lãnh
đạo
chủ
chốt
các
cấp.
Kiên
quyết
đấu
tranh
chống
chủ
nghĩa
cá
nhân.
-
Nghị
quyết
Trung
ương
4
khóa
XI
đã
chỉ
rõ:
việc
học
tập
và
làm
theo
tấm
gương
đạo
đức
Hồ
Chí
Minh
là
một
trong
những
giải
pháp
chủ
yếu
của
công
tác
tư
tưởng,
lý
luận
để
xây
dựng
Đảng.
Nội
dung
nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm,
phong
cách
gương
mẫu,
nói
đi
đôi
với
làm
gắn
bó
chặt
chẽ
với
các
chủ
đề
của
Cuộc
vận
động
“Học
tập
và
làm
theo
tấm
gương
đạo
đức
Hồ
Chí
Minh”
và
thực
hiện
chỉ
thị
số
03-CT/TW
của
Bộ
Chính
trị
những
năm
qua.
Do
vậy,
tiếp
tục
thực
hiện
“nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm,
phong
cách
gương
mẫu,
nói
đi
đôi
với
làm
phải”
trở
thành
công
việc
thường
xuyên.
-
Nêu
cao
tinh
thần
trách
nhiệm,
phong
cách
gương
mẫu,
nói
đi
đôi
với
làm
là
thực
hành
đạo
đức
cách
mạng.
Đạo
đức
cách
mạng
theo
Hồ
Chí
Minh
không
phải
tự
dưng
mà
có.
Không
phải
bất
cứ
ai
sinh
ra
trong
thời
đại
mới
thì
sẽ
có
đạo
đức
mới,
sinh
ra
trong
phong
trào
cách
mạng
thì
sẽ
có
đạo
đức
cách
mạng.
Đó
là
kết
quả
của
sự
khổ
công
rèn
luyện,
của
một
quá
trình
tu
dưỡng
công
phu,
lâu
dài.
Nếu
không
có
ý
thức
và
quyết
tâm,
không
có
tinh
thần
bền
bỉ
phấn
đấu
thì
sự
suy
thoái
về
phẩm
chất,
sự
trượt
dốc
trong
lối
sống
trước
cám
dỗ
của
đồng
tiền
và
quyền
lực,
sẽ
là
một
tất
yếu
không
thể
tránh
khỏi.
Chủ
tịch
Hồ
Chí
Minh
đã
dạy:
“Đạo
đức
cách
mạng
không
phải
trên
trời
sa
xuống.
Nó
do
đấu
tranh,
rèn
luyện
bền
bỉ
hằng
ngày
mà
phát
triển
và
củng
cố.
Cũng
như
ngọc
càng
mài
càng
sáng,
vàng
càng
luyện
càng
trong”
[27].
-
Với
toàn
Đảng,
Hồ
Chí
Minh
khẳng
định:
Đảng
ta
là
một
đảng
cầm
quyền.
Về
bản
chất,
đó
là
đảng
của
giai
cấp
công
nhân,
đồng
thời
là
đảng
của
nhân
dân
lao
động,
của
dân
tộc.
Đảng
đại
biểu
cho
lợi
ích
của
giai
cấp
và
dân
tộc.
Đảng
quy
tụ
những
người
kiên
quyết
nhất,
hăng
hái
nhất,
trong
sạch
nhất,
tận
tâm,
tận
lực
phụng
sự
Tổ
quốc
và
nhân
dân.
Đảng
cầm
quyền
lãnh
đạo
đất
nước
thực
hiện
mục
tiêu
độc
lập
và
dân
tộc
và
chủ
nghĩa
xã
hội.
Tuy
nhiên,
Đảng
cầm
quyền
cũng
dễ
dẫn
đến
xa
dân,
quan
liêu,
mệnh
lệnh.
Đảng
cầm
quyền
trong
điều
kiện
kinh
tế
thị
trường,
đảng
viên
càng
dễ
bị
tha
hóa,
biến
chất,
suy
thoái
về
tư
tưởng
chính
trị,
đạo
đức,
lối
sống.
Cán
bộ,
công
chức
giữ
vị
trí
lãnh
đạo,
quản
lý
dễ
xa
vào
tham
nhũng,
tiêu
cực.
Vì
vậy,
mỗi
tổ
chức
Đảng,
mỗi
đoàn
thể
chính
trị
-
xã
hội,
mỗi
cán
bộ,
đảng
viên
phải
luôn
luôn
cảnh
giác
với
chính
mình
để
không
sa
ngã
bởi
nhiều
cám
dỗ.
Phải
thường
xuyên
học
tập
và
làm
theo
tư
tưởng
và
tấm
gương
đạo
đức
Hồ
Chí
Minh.
Phải
“
Nhận
rõ
phải,
trái.
Giữ
vững
lập
trường.
Tận
trung
với
nước.
Tận
hiếu
với
dân”[28].
Cần
quán
triệt
sâu
sắc
chỉ
dạy
của
Người
trong
Di
Chúc:
“Đảng
ta
là
một
Đảng
cầm
quyền.
Mỗi
đảng
viên
và
cán
bộ
phải
thật
sự
thấm
nhuần
đạo
đức
cách
mạng,
thật
sự
cần
kiệm
liêm
chính,
chí
công
vô
tư.
Phải
giữ
gìn
Đảng
ta
thật
trong
sạch,
phải
xứng
đáng
là
người
lãnh
đạo,
là
người
đày
tớ
thật
trung
thành
của
nhân
dân”./.
[1]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.6,
tr.346.
[2]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.6,
tr.489.
[3]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.6,
tr.489
-
490.
[4]Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.6,
tr.89
[5]Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.6,
tr.490.
[6]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.6,
tr.490.
[7]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.2,
tr.260.
[8]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.1,
tr.263.
[9]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.12,
tr.213.
[10]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.3,
tr.430.
[11]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.5,
tr.108.
[12]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.5,
tr.250,
699.
[13]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.5,
tr.
699.
[14]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.3,
tr.198.
[15]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.3,
tr.265.
[16]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.3,
tr.308.
[17]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.3,
tr.505.
[18]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.4,
tr.240.
[19]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.3,
tr.161.
[20]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.3,
tr.161.
[21]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.8,
tr.236.
[22]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.5,
tr.552.
[23]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.7,
tr.59.
[24]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.4,
tr.31.
[25]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.6,
tr.494.
[26]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.5tr.552.
[27]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.9
tr.293.
[28]
Hồ
Chí
Minh:
Toàn
tập,
t.7
tr.480.